Hội luận: Ngày Quốc Tế Nhân Quyền

Lê Phát Minh với Đặng Quốc Việt trên SBTNHouston-BYN TV (Houston, TX)

Lê Phát Minh với Nguyễn Tấn Trí trên VANTV (Houston, TX)

Ngày Quốc Tế Nhân Quyền

Lê Phát Minh

Nhân ngày Quốc Tế Nhân Quyền lần thứ 66, tôi sưu tầm và ghi lại nguyên nhân và nguồn gốc của Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền để tuyên dương những tâm hồn bác ái trong sáng của những cá nhân và tổ chức tạo dựng nên bản văn nhằm soi sáng chân lý bảo vệ quyền lợi chính đáng của con người mà thượng đế ban cho đã bị tước đoạt bởi các chế độ độc tài: Quân Chủ Chuyên Chế, Thực Dân,  Quân Phiệt, Cộng Sản v.v…

Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền là tuyên ngôn về các quyền căn bản của con người được Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc thông qua ngày 10 tháng 12 năm 1948 tại Palais de Chaillot ở Paris, Pháp Quốc. Bản Tuyên ngôn đã được dịch ra ít nhất 375 ngôn ngữ.

Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền được soạn thảo để đáp ứng từ những kinh nghiệm vi phạm quyền con người trong Thế Chiến Thứ Hai bởi các chế độ độc tài Đức Quốc Xã, độc tài Cộng Sản và độc tài Thực Dân. Bản tuyên ngôn nhân quyền này là bản soạn thảo đầu tiên trên thế giới, trong đó liệt kê các quyền căn bản mà theo đó mọi người đều được hưởng. Nó bao gồm 30 điều đã được xây dựng trong các Thỏa ước quốc tế, thỏa ước nhân quyền, để cho các hiến pháp và luật pháp các quốc gia thành viên phải dựa vào tinh thần bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền đề ra. Bộ Luật Nhân Quyền Quốc Tế bao gồm Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền, Công ước Quốc tế về các Quyền Kinh tế, Xã hội và Văn hóa, và Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị.   

Năm 1966, Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc đã thông qua hai Công ước trên, và hoàn thành Bộ Luật Nhân quyền Quốc tế.Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền là một khuôn mẫu chung mà mọi quốc gia và mọi dân tộc cần phải đạt tới. Tinh thần của bản Tuyên ngôn là dùng truyền đạt và giáo dục nhằm thúc đẩy các quốc gia thành viên Liên Hiệp Quốc tôn trọng các quyền căn bản của con người được đưa ra trong bản Tuyên ngôn.

Điều khoản cuối cùng của bản Tuyên ngôn có viết “Không một điều nào trong Bản Tuyên Ngôn này được hiểu và hàm ý cho phép một nước, một nhóm hay một cá nhân nào được quyền có những việc làm hay hành động nhằm hủy diệt nhân quyền và tự do được thừa nhận trong bản Tuyên Ngôn này”.

Và những quốc gia chấp nhận trở thành “thành viên” của tổ chức Liên Hiệp Quốc buộc phải chấp nhận thi hành các điều khoản được ghi trong bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc, nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam đã phải ký kết các công ước Quốc Tế về Nhân Quyền để được chấp nhận làm thành viên Liên Hiệp Quốc năm 1977. Do đó CSVN phải tuân thủ  30 điều khoản được ghi trong bản Tuyên Ngôn và các Công Ước Quốc Tế về Nhân Quyền. Vì vậy đảng và nhà cầm quyền CSVN không thể viện dẫn rằng mỗi quốc gia có luật pháp riêng, quan niệm về Dân Chủ khác nhau để vi phạm như điều 30 trong bản tuyên ngôn ngăn cấm. Công ước quốc tế về nhân quyền quan trọng đầu tiên mà Việt Nam ký kết là Công ước quốc tế về Xoá bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ, được Đại Hội đồng LHQ thông qua ngày 18/2/1979 và có hiệu lực ngày 3/9/1980. Việt Nam ký Công ước này ngày 27/11/1981 và phê chuẩn tháng 2/1982.

Ngày 9/6/1981, Việt Nam gia nhập Công ước quốc tế về Xoá bỏ các hình thức phân biệt chủng tộc. Công ước này được Đại Hội đồng LHQ thông qua ngày 21/12/1965 và có hiệu lực từ ngày 4/1/1969.

Công ước quốc tế về các Quyền kinh tế, văn hoá và xã hội, và Công ước quốc tế về các Quyền dân sự, chính trị, được Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc thông qua 16/12/1966 và có hiệu lực từ ngày 23/3/1976. Việt Nam gia nhập hai Công ước này ngày 24/9/1982. Điều 4 hiến pháp của nhà cầm quyền CSVN đã vi phạm trắng trợn hai công ước mà họ đã ký.

Ngoài ra qua bộ luật Hình Sự số 15/1999 của nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam ban hành ngày 21 tháng 12 năm 1999 gồm có 344 điều. Trong các điều khác ghi trong bộ luật hình sự của CSVN chúng ta miễn bàn đến, chỉ các điều 88 và 258 là quá mơ hồ, lợi dụng sự mơ hồ này nhà cầm quyền CSVN có thể quy chụp bất cứ ngôn từ phát biểu nào của người dân bất đồng quan điểm về chính sách, đường lối cai trị, điều hành đất nước của nhà cầm quyền đều bị cho là chống phá và âm mưu lật đổ chính quyền để đàn áp, bắt bớ giam cầm với những bản án nặng nề mà thế giới văn minh ngày nay không thể chấp nhận được.

Như trong chương 11, phần các tội phạm về vấn đề Xâm Phạm An Ninh Quốc Gia,  điều 88: Về tội tuyên truyền chống Nhà Nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, với nội dung: Tuyên truyền xuyên tạc, phỉ báng chính quyền nhân; Làm ra, tàng trữ, lưu hành các tài liệu, văn hoá phẩm có nội dung chống Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Và điều 258: Tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân của tổ chức, công dân.

Trong khi người dân ở các quốc gia tự do, nhứt là Hoa Kỳ, Canada, Pháp, Ú Đại Lợi….. chỉ trích chống đối bất cứ chính sách nào của chính quyền đưa ra là một việc rất tự nhiên và bình thường, sự chỉ trích đó đúng hay sai để công luận đánh giá và từ đó chính quyền điều chỉnh cho công cuộc điều hành đất nước hoàn chỉnh và hợp lòng dân hơn.

Qua các tội danh liệt kê trong điều 88 và điều 258 hoàn toàn đi ngược lại tinh thần Công Ước Quốc Tế Nhân Quyền và vi phạm điều 30 của bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền mà nhà cầm quyền CSVN đã đặt bút ký kết. Sự kiện này cho thấy nhà cầm quyền và đảng CSVN nói một đường làm một nẽo, luôn luôn vi phạm trắng trợn các hiệp ước quốc tế mà họ đã ký kết.

Qua các sự kiện vi phạm vừa nêu trên cho thấy nhà cầm quyền CSVN không xứng đáng là một thành viên  trong Ủy Ban Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc và không chính danh đối với chính dân tộc Việt Nam.

Tóm lại nhà cầm quyền CSVN đã ký kết tôn trọng chuẩn mực tinh thần 30 điều của bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền, mà hiện tại CSVN đang là thành viên của Ủy Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc thì lại càng phải làm gương tốt trong việc tôn trọng các điều đã ghi trong Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền, không thể viện dẫn, ngụy biện quan niệm riêng về Nhân Quyền của quốc gia mình như điều 30 của bản Tuyên Ngôn minh định đã ngăn cấm.

Theo điều 19 trong Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền “Mọi người đều có quyền tự do ngôn luận và bày tỏ quan điểm. Quyền này bao gồm sự tự do quan điểm mà không bị xen vào quấy rầy và được tự do tìm kiếm, thu nhận và quảng bá tin tức và tư tưởng qua mọi phương tiện truyền thông bất kể biên giới”. Vì vậy, nhà cầm quyền CSVN phải hủy bỏ các điều luật hình sự mơ hồ như  88 và 258; Chấm dứt sự sách nhiễu và trả tự do tức khắc và vô điều kiện các tù nhân lương tâm đang bị giam cầm vì đã bày tỏ quan điểm bất đồng chánh kiến với nhà cầm quyền về tự do tôn giáo, chính trị và nhân quyền. Đặc biệt phải trả tự do tức khắc vô điều kiện cháu Đinh Nguyên Kha đang bị giam cầm tại trại tù K3 Xuyên Mộc chỉ vì thể hiện lòng yêu nước chống giặc tàu, cháu Kha đang bị bệnh nặng, sức khỏe suy yếu trầm trọng cần chửa trị. Và tôi xin kêu gọi Cộng Đồng Việt Nam Hải Ngoại và các Tổ Chức Đấu Tranh cùng nhau vận động công luận quốc tế và các chính quyền trong thế giới Tự Do, nhứt là tại Âu Châu, Hoa Kỳ, Canada và Úc Đại Lợi can thiệp nhà cầm quyền CSVN trả tự do cho cháu Đinh Nguyên Kha.

Về quyền Tư Hữu ghi trong điều 17 của bản tuyên ngôn Quốc Tế Nhân Quyền: “Mọi người đều có quyền sở hữu tài sản cá nhân cũng như tập thể. Không ai có thể bị tước đoạt tài sản của mình một cách độc đoán”. Vì vậy nhà cầm quyền CSVN phải trả lại tài sản và trả tự do ngay tức khắc những Dân Oan đang bị giam cầm vì muốn bảo vệ tài sản của mình bị đánh cướp bởi tập đoàn tham quan nhũng lạm, qua các bản án man rợ với các phiên toà dàn dựng bất hợp pháp và bất chính trong quá khứ cũng như gần đây, điển hình nhứt với các vụ án Đoàn Văn Vương tại Tiên Lãng và Dân Oan Dương Nội.

Houston, ngày 5 tháng 12 năm 2014

Lê Phát Minh

 

 

Ghi chú:

Điều 88. Tội tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam

 1. Người nào có một trong những hành vi sau đây nhằm chống Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười hai năm:

a) Tuyên truyền xuyên tạc, phỉ báng chính quyền nhân dân;

b) Tuyên truyền những luận điệu chiến tranh tâm lý, phao tin bịa đặt gây hoang mang trong nhân dân;

c) Làm ra, tàng trữ, lưu hành các tài liệu, văn hoá phẩm có nội dung chống Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

2. Phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ mười năm đến hai mươi năm.

Điều 258. Tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân:

1. Người nào lợi dụng các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do tín ngưỡng, tôn giáo, tự do hội họp, lập hội và các quyền tự do dân chủ khác xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.

2. Phạm tội trong trường hợp nghiêm trọng thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.

 

Universal Declaration of Human Rights

PREAMBLE

Whereas recognition of the inherent dignity and of the equal and inalienable rights of all members of the human family is the foundation of freedom, justice and peace in the world,

Whereas disregard and contempt for human rights have resulted in barbarous acts which have outraged the conscience of mankind, and the advent of a world in which human beings shall enjoy freedom of speech and belief and freedom from fear and want has been proclaimed as the highest aspiration of the common people,

Whereas it is essential, if man is not to be compelled to have recourse, as a last resort, to rebellion against tyranny and oppression, that human rights should be protected by the rule of law,

Whereas it is essential to promote the development of friendly relations between nations,

Whereas the peoples of the United Nations have in the Charter reaffirmed their faith in fundamental human rights, in the dignity and worth of the human person and in the equal rights of men and women and have determined to promote social progress and better standards of life in larger freedom,

Whereas Member States have pledged themselves to achieve, in co-operation with the United Nations, the promotion of universal respect for and observance of human rights and fundamental freedoms,

Whereas a common understanding of these rights and freedoms is of the greatest importance for the full realization of this pledge,

Now, Therefore THE GENERAL ASSEMBLY proclaims THIS UNIVERSAL DECLARATION OF HUMAN RIGHTS as a common standard of achievement for all peoples and all nations, to the end that every individual and every organ of society, keeping this Declaration constantly in mind, shall strive by teaching and education to promote respect for these rights and freedoms and by progressive measures, national and international, to secure their universal and effective recognition and observance, both among the peoples of Member States themselves and among the peoples of territories under their jurisdiction.

Article 1.

All human beings are born free and equal in dignity and rights. They are endowed with reason and conscience and should act towards one another in a spirit of brotherhood.

Article 2.

Everyone is entitled to all the rights and freedoms set forth in this Declaration, without distinction of any kind, such as race, colour, sex, language, religion, political or other opinion, national or social origin, property, birth or other status. Furthermore, no distinction shall be made on the basis of the political, jurisdictional or international status of the country or territory to which a person belongs, whether it be independent, trust, non-self-governing or under any other limitation of sovereignty.

Article 3.

Everyone has the right to life, liberty and security of person.

Article 4.

No one shall be held in slavery or servitude; slavery and the slave trade shall be prohibited in all their forms.

Article 5.

No one shall be subjected to torture or to cruel, inhuman or degrading treatment or punishment.

Article 6.

Everyone has the right to recognition everywhere as a person before the law.

Article 7.

All are equal before the law and are entitled without any discrimination to equal protection of the law. All are entitled to equal protection against any discrimination in violation of this Declaration and against any incitement to such discrimination.

Article 8.

Everyone has the right to an effective remedy by the competent national tribunals for acts violating the fundamental rights granted him by the constitution or by law.

Article 9.

No one shall be subjected to arbitrary arrest, detention or exile.

Article 10.

Everyone is entitled in full equality to a fair and public hearing by an independent and impartial tribunal, in the determination of his rights and obligations and of any criminal charge against him.

Article 11.

(1) Everyone charged with a penal offence has the right to be presumed innocent until proved guilty according to law in a public trial at which he has had all the guarantees necessary for his defence.

(2) No one shall be held guilty of any penal offence on account of any act or omission which did not constitute a penal offence, under national or international law, at the time when it was committed. Nor shall a heavier penalty be imposed than the one that was applicable at the time the penal offence was committed.

Article 12.

No one shall be subjected to arbitrary interference with his privacy, family, home or correspondence, nor to attacks upon his honour and reputation. Everyone has the right to the protection of the law against such interference or attacks.

Article 13.

(1) Everyone has the right to freedom of movement and residence within the borders of each state.

(2) Everyone has the right to leave any country, including his own, and to return to his country.

Article 14.

(1) Everyone has the right to seek and to enjoy in other countries asylum from persecution.

(2) This right may not be invoked in the case of prosecutions genuinely arising from non-political crimes or from acts contrary to the purposes and principles of the United Nations.

Article 15.

(1) Everyone has the right to a nationality.

(2) No one shall be arbitrarily deprived of his nationality nor denied the right to change his nationality.

Article 16.

(1) Men and women of full age, without any limitation due to race, nationality or religion, have the right to marry and to found a family. They are entitled to equal rights as to marriage, during marriage and at its dissolution.

(2) Marriage shall be entered into only with the free and full consent of the intending spouses.

(3) The family is the natural and fundamental group unit of society and is entitled to protection by society and the State.

Article 17.

(1) Everyone has the right to own property alone as well as in association with others.

(2) No one shall be arbitrarily deprived of his property

Article 18.

Everyone has the right to freedom of thought, conscience and religion; this right includes freedom to change his religion or belief, and freedom, either alone or in community with others and in public or private, to manifest his religion or belief in teaching, practice, worship and observance.

Article 19.

Everyone has the right to freedom of opinion and expression; this right includes freedom to hold opinions without interference and to seek, receive and impart information and ideas through any media and regardless of frontiers.

Article 20.

(1) Everyone has the right to freedom of peaceful assembly and association.

(2) No one may be compelled to belong to an association.

Article 21.

(1) Everyone has the right to take part in the government of his country, directly or through freely chosen representatives.

(2) Everyone has the right of equal access to public service in his country.

(3) The will of the people shall be the basis of the authority of government; this will shall be expressed in periodic and genuine elections which shall be by universal and equal suffrage and shall be held by secret vote or by equivalent free voting procedures.

Article 22.

Everyone, as a member of society, has the right to social security and is entitled to realization, through national effort and international co-operation and in accordance with the organization and resources of each State, of the economic, social and cultural rights indispensable for his dignity and the free development of his personality.

Article 23.

(1) Everyone has the right to work, to free choice of employment, to just and favourable conditions of work and to protection against unemployment.

(2) Everyone, without any discrimination, has the right to equal pay for equal work.

(3) Everyone who works has the right to just and favourable remuneration ensuring for himself and his family an existence worthy of human dignity, and supplemented, if necessary, by other means of social protection.

(4) Everyone has the right to form and to join trade unions for the protection of his interests.

Article 24.

Everyone has the right to rest and leisure, including reasonable limitation of working hours and periodic holidays with pay.

Article 25.

(1) Everyone has the right to a standard of living adequate for the health and well-being of himself and of his family, including food, clothing, housing and medical care and necessary social services, and the right to security in the event of unemployment, sickness, disability, widowhood, old age or other lack of livelihood in circumstances beyond his control.

(2) Motherhood and childhood are entitled to special care and assistance. All children, whether born in or out of wedlock, shall enjoy the same social protection.

Article 26.

(1) Everyone has the right to education. Education shall be free, at least in the elementary and fundamental stages. Elementary education shall be compulsory. Technical and professional education shall be made generally available and higher education shall be equally accessible to all on the basis of merit.

(2) Education shall be directed to the full development of the human personality and to the strengthening of respect for human rights and fundamental freedoms. It shall promote understanding, tolerance and friendship among all nations, racial or religious groups, and shall further the activities of the United Nations for the maintenance of peace.

(3) Parents have a prior right to choose the kind of education that shall be given to their children.

Article 27.

(1) Everyone has the right freely to participate in the cultural life of the community, to enjoy the arts and to share in scientific advancement and its benefits.

(2) Everyone has the right to the protection of the moral and material interests resulting from any scientific, literary or artistic production of which he is the author.

Article 28.

Everyone is entitled to a social and international order in which the rights and freedoms set forth in this Declaration can be fully realized.

Article 29.

(1) Everyone has duties to the community in which alone the free and full development of his personality is possible.

(2) In the exercise of his rights and freedoms, everyone shall be subject only to such limitations as are determined by law solely for the purpose of securing due recognition and respect for the rights and freedoms of others and of meeting the just requirements of morality, public order and the general welfare in a democratic society.

(3) These rights and freedoms may in no case be exercised contrary to the purposes and principles of the United Nations.

Article 30.

Nothing in this Declaration may be interpreted as implying for any State, group or person any right to engage in any activity or to perform any act aimed at the destruction of any of the rights and freedoms set forth herein.

Source: http://www.un.org/en/documents/udhr/

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *